Trịnh Công Sơn: Nhiều năm không hết lạ
Thứ Hai, ngày 04/04/2011 09:36 AM (GMT+7)
Ca từ là một đề tài gần như không cạn khi
nói tới các bài hát của Trịnh Công Sơn. Từ thành phố Đà Lạt, nơi gắn bó
với một thời tuổi trẻ của nhạc sĩ họ Trịnh, một bạn đọc đã có những
phát hiện mới thú vị về điều tưởng như không còn mới này.
Trên chặng đường phát triển ngôn ngữ tiếng Việt, Trịnh Công Sơn
như một nhà phù thủy của ngôn từ, ông khoác vào ngôn ngữ mẹ đẻ một
quầng ảo vọng, siêu thực mà theo tôi có lẽ nhiều năm sau cũng khó có
người Việt nào đạt đến trình độ điêu luyện ấy. Những sự vật tầm thường
nhưng khi được “chiếc đũa thần” của Trịnh gõ vào thì lập tức biến thành
lạ thường. “Nắng” thì ai chả thấy, nhưng chỉ có Trịnh Công Sơn
mới thấy Nắng thủy tinh. “Mưa” đương nhiên ai chả biết nhưng Mưa hồng
thì chỉ chàng trai họ Trịnh mới hay! Hạ là hè. Mùa hạ tức mùa hè. Điều
đó có gì lạ! Lạ chăng là bởi sau chữ Hạ, Trịnh Công Sơn thêm chữ Trắng
đầy diễm tuyệt trong ca khúc Hạ trắng. “Mắt xanh xao” có lẽ đối với các
nhà bệnh lý học thì đấy là triệu chứng của một bệnh nào đấy, nhưng đối
với Trịnh thì “mắt xanh xao” lại là điểm nhấn cho một hình ảnh liêu
trai, đài các: “Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao” (Diễm xưa).
Ở đây, tôi mạo muội làm cái việc “động trời” là đụng đến Nguyễn Du - một bậc thầy về ngôn ngữ. Không có ý so sánh, tôi chỉ muốn bàn về nghệ thuật sử dụng ngôn từ giữa hai con người tài danh này mà thôi. Ở Nguyễn Du, tiếng Việt chỉ đẹp bởi sự chính xác, mang tính triết lý cao, và xem ra cái “mỹ” ở đây chỉ là cái “mỹ” của hiện thực. Còn cái “đẹp” của Trịnh Công Sơn lại là cái đẹp bảng lảng, sương khói của siêu thực, ấn tượng, bởi vì ông có khả năng tạo nên độ bóng của ngôn từ. Sự vật nào được Trịnh Công Sơn đụng đến cũng bớt thật đi, và được khoác lên một thứ ánh sáng mới, đủ sức bước ra sân khấu của ngôn từ với vẻ mặt trang trọng.
Ở đây, tôi mạo muội làm cái việc “động trời” là đụng đến Nguyễn Du - một bậc thầy về ngôn ngữ. Không có ý so sánh, tôi chỉ muốn bàn về nghệ thuật sử dụng ngôn từ giữa hai con người tài danh này mà thôi. Ở Nguyễn Du, tiếng Việt chỉ đẹp bởi sự chính xác, mang tính triết lý cao, và xem ra cái “mỹ” ở đây chỉ là cái “mỹ” của hiện thực. Còn cái “đẹp” của Trịnh Công Sơn lại là cái đẹp bảng lảng, sương khói của siêu thực, ấn tượng, bởi vì ông có khả năng tạo nên độ bóng của ngôn từ. Sự vật nào được Trịnh Công Sơn đụng đến cũng bớt thật đi, và được khoác lên một thứ ánh sáng mới, đủ sức bước ra sân khấu của ngôn từ với vẻ mặt trang trọng.