Nuôi trồng, khai thác thủy hải sản
Aquaculture & Fishery
ThS. Võ Văn Nha - Trung tâm NCTS 3, Tap
chi KHTS 2/2003
http://www.vietlinh.vn/library/aquaculture_shrimp/hum_benh_humbong.asp
Kết quả bước đầu nghiên cứu một số bệnh
thường gặp ở tôm hùm bông (Panulirus ornatus) nuôi lồng tại vùng biển
Sông Cầu, Phú Yên
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu kỹ thuật
nuôi tôm hùm lồng những năm qua làm cơ sở cho ngư dân ven biển miền Trung, đặc
biệt là Phú Yên phát triển mạnh nghề nuôi tôm hùm lồng. Theo số liệu thống kê
chưa đầy đủ, năm 2001 toàn tỉnh Phú yên có hơn 11.000 lồng, riêng huyện Sông
Cầu có khoảng 10.000 lồng nuôi tôm hùm, chủ yếu là nuôi tôm hùm bông
(P.ornatus) và tập trung ở các xã ven biển như: Xuân Phương, Xuân Thịnh, Xuân
Cảnh, Xuân Thọ và thị trấn Sông Cầu.
Tuy vậy, sự phát triển tự phát và việc
quản lý chưa tốt đặc biệt là thức ăn nuôi tôm hùm lồng chủ yếu là thức ăn tươi
sống, gây ô nhiễm môi trường vùng nuôi, làm dịch bệnh xảy ra. Trước thực trạng
đó, hướng tìm hiểu hiện trạng bệnh tôm hùm nuôi lồng ở nơi có nghề nuôi tôm
hùm.
Mẫu thu chọn lọc, tại thời điểm tôm
thường mắc bệnh, chọn những con có dấu hiệu bệnh lý (yếu, lờ đờ, kém ăn, màu
sắc thay đổi ) đem vào nghiên cứu. Thu mẫu 7 lần với số lượng 21 con có trọng
lượng từ 60 500 gam/con (trung bình : 280 gam/con).
2. Phương pháp nghiên
cứu sinh vật gây bệnh
+ Phân lập, định danh vi khuẩn : Dựa
vào khoá phân loại vi khuẩn của Bergey, 1994.
+ Xác định vi khuẩn tổng số và vi khuẩn
vibrrio : sử dụng phương pháp Kock.
+ Nghiên cứu độ nhạy kháng sinh của vi
khuẩn gây bệnh : Phương pháp đĩa nhạy kháng sinh có cải tiến của Kirby Bauer,
1986.
+ Nghiên cứu ký sinh trùng: sử dụng
phương pháp của viện sỹ V.A.Dogiel, 1960.
+ Nghiên cứu nấm : nuôi cấy bệnh phẩm
trên môi trường PGYA (Pepton Glucose Yeast agar) được làm với NaCl 2%, kết hợp
với một số kháng sinh để chống sự phát triển của vi khuẩn.
3. Phương pháp thu
thập thông tin về bệnh tôm hùm nuôi lồng
Việc thu thập thông tin dựa trên 2
nguồn chính là :
+ Từ các cơ quan chuyên ngành như phòng
NN&PTNT Sông Cầu, Sở Thuỷ sản Phú Yên và từ những người có liên quan đến
hoạt động nuôi tôm hùm lồng, chủ yếu là phỏng vấn trực tiếp và điều tra bằng
phiếu hỏi.
Kết quả nghiên cứu và
thảo luận
1. Hiện trạng bệnh ở
tôm hùm bông nuôi lồng tại Sông Cầu, Phú Yên
Qua tìm hiểu phân tích thực trạng bệnh
ở tôm hùm bông nuôi lồng tại Sông Cầu, Phú Yên chúng tôi phát hiện một số bệnh
thường xảy ra ở tôm hùm khu vực này như sau :
Mộtsố bệnh thường gặp ở tôm hùm bông
nuôi lồng tại Sông Cầu, Phú Yên
STT
|
Dấu hiệu đặc trưng
|
Giai đoạn tôm mắc bệnh
|
Mô tả dấu hiệu bệnh lý
|
Tác hại của bệnh
|
1
|
Trắng râu
|
Tôm con
|
Râu 1 chuyển từ nâu sang vàng, hồng
rồi sang trắng
|
Chết hàng loạt
|
2
|
Long đầu
|
Tôm con, tôm trưởng thành
|
Phần giáp đầu ngực và phần thân long
ra, có chất dịch bên trong lớp biểu bì khu vực này
|
Chết rải rác đến hàng loạt
|
3
|
Ðầu to
|
Tôm con, tôm trưởng thành
|
Phần giáp đầu ngực tôm rất lớn, khác thường,
phần thân và đuôi nhỏ
|
Chết rải rác
|
4
|
Mềm vỏ
|
Tôm trưởng thành
|
Toàn bộ cơ thể tôm mềm kéo dài như
lúc vừa mới lột xác
|
Chết rải rác
|
5
|
Ðóng sun, hầu
|
Tôm trưởng thành
|
Nhìn bề ngoài thấy sun, hầu bám đầy ở
phần giáp đầu ngực
|
Chết rải rác
|
6
|
Ðen mang
|
Tôm con, tôm trưởng thành
|
Mang tôm thối rữa và chuyển màu đen
|
Chết hàng loạt
|
7
|
Phồng mang
|
Tôm con, tôm trưởng thành
|
Mang tôm phồng lên, có chất dịch vàng
dưới lớp biểu bì nắp mang
|
Chết rải rác đến hàng loạt
|
8
|
Ðỏ thân
|
Tôm con, tôm trưởng thành
|
Toàn bộ thân tôm chuyển sang màu
hồng, tôm yếu dần, bỏ ăn và chết
|
Chết hàng loạt
|
Nhận xét: Qua bảng trên thấy rằng, tôm hùm nuôi lồng tại vùng biển
Sông Cầu, Phú Yên có dấu hiệu bệnh lý khá đa dạng. Tỷ lệ tôm chết khi mắc các
bệnh mềm vỏ, long đầu, đóng sun hay hầu và bệnh đầu to là ít, chỉ chết rải rác
không gây hại đáng kể cho người nuôi một khi biết cách ngăn ngừa. Tuy nhiên,
đối với bệnh đỏ thân, trắng râu và đen mang lại có tần số xuất hiện cao, gây
chết tôm hùm nuôi hàng loạt và nhanh chóng (sau 3-7 ngày khi phát hiện dấu hiệu
bệnh lý). Ðặc biệt dấu hiệu tôm đỏ thân - dấu hiệu thường gặp nhất ở mọi kích
cỡ tôm từ 50 gr/con đến 1200 gr/con. Ðây có thể là sản phẩm tổng hợp của nhiều
tác nhân gây bệnh tác động vào tôm hùm nuôi. Do vậy cần có những nghiên cứu sâu
hơn về các tác nhân, biện pháp phòng trị bệnh đỏ thân cũng như bệnh trắng râu
và đen mang ở tôm hùm bông nuôi lồng khu vực này.
2. Vi khuẩn
Qua 7 lần lấy mẫu phân tích, kết quả
phân lập vi khuẩn, nấm và động vật ký sinh trên tôm hùm bông nuôi lồng ở Sông
Cầu, Phú Yên được thể hiện như sau :
Vi khuẩn luôn luôn là tác nhân chủ yếu
gây nhiều bệnh cho tất cả các sinh vật gồm vi khuẩn Vibrrio, Aeromonas, Pseudomonas, Proteus.
Không những tôm he (Penaeus) nuôi ở nước mặn thường bị cảm nhiễm vi
khuẩn Vibrio mà ở tôm hùm (Panulirus) nuôi lồng trên biển cũng cho kết
quả tương tự. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với phát hiện của Evans (1987) khi
nghiên cứu bệnh vi khuẩn trên tôm hùm. Tuy vậy, tần số bắt gặp các giống vi
khuẩn này khác nhau, trong đó vi khuẩn vibrio gặp ở hầu hết các đợt mẫu nghiên
cứu. Do đó việc nghiên cứu Vibrio là một trong những hướng chủ yếu.
Từ kết quả nghiên cứu đặc điểm hình
thái, thực hiện các phản ứng sinh vật hoá học, dựa vào khoá phân loại vi khuẩn
của Bergey, chúng tôi có thể xác định tên của chủng vi khuẩn Vibrio đã phân lập
là V.parahaemolyticus.
Ðể làm cơ sở khoa học cho việc dùng
kháng sinh phòng trị bệnh vi khuẩn ở tôm hùm nuôi lồng, chúng tôi thử độ nhạy
một số kháng sinh đối với vi khuẩn V.parahaemolyticus. Kết quả thu được như sau
:
Kếtquả thử độ nhạy kháng sinh của vi
khuẩn V.parahaemolyticus
Loại ký sinh
- Ðộ nhạy
|
Nalidixic acid (30 mg/dĩa)
|
Ciprofloxacin (5 mg/dĩa)
|
Cephalexin (30 mg/dĩa)
|
Norfloxacin (10 mg/dĩa)
|
Bactrim (1,25/23,75mg/dĩa)
|
Ðường kính vòng vô khuẩn (mm)
|
24 26
|
27 29
|
9 11
|
26 28
|
15 17
|
Loại ký sinh Ðộ nhạy
|
Ofloxacin (5
mg/dĩa)
|
Gentamycin (10 mg/dĩa)
|
Cefurantin (30 mg/dĩa)
|
Doxycyclin (30 mg/dĩa)
|
Cefoperazone (75
mg/dĩa)
|
Ðường kính vòng vô khuẩn (mm)
|
22 24
|
13 15
|
12 14
|
20 22
|
19 - 21
|
Các loại kháng sinh có độ nhạy cao với
vi khuẩn V.parahaemolyticus trong điều kiện thí nghiệm là :
Ciprofloxacin, Nalidixic acid, Norfloxacin hiện tại có khả năng phòng trị tốt
bệnh vi khuẩn ở tôm hùm nuôi lồng khu vực Sông Cầu, Phú Yên. Tuy vậy, không
phải khi nào cũng có hiệu quả, có thể do các nguyên nhân :
- Do nồng độ kháng sinh dùng trong thức
ăn thấp hơn nồng độ cần thiết (có thể do thuốc khó hoà tan hoặc trong thức ăn
hay trong nước có sẵn một số chất kháng có thể kết hợp làm mất tác dụng kháng
sinh).
- Do sự kháng thuốc của vi khuẩn V.Parahaemolyticus,
là vi khuẩn Gram âm, dễ xảy ra kháng thuốc.
- Do tác nhân chính gây nên bệnh đỏ
thân chưa phải là V.parahaemolyticus. Ðây là vấn đề, cần
nghiên cứu thêm.
3. Nấm và vật ký sinh
Ngoài vi khuẩn, nấm và động vật ký sinh
cũng là 2 tác nhân gây bệnh thường gặp trên các sinh vật nuôi. Các mẫu tôm hùm
bông đem nghiên cứu, qua kiểm tra trực tiếp bằng mắt thường, kính hiển vi và
phân lập trên môi trường PGYA chúng tôi thu được kết quả là tôm hùm nuôi lồng
khu vực Sông Cầu, Phú yên thường nhiễm nấm Lagenidium sp, với tần số bắt gặp
khá lớn (>50% số mẫu nghiên cứu), nấm fusarium sp bắt gặp ít hơn (30% số mẫu
nghiên cứu). Tuy nhiên khả năng gây hại ở các loại nấm này chưa rõ ràng khi tần
số bắt gặp thấp trên tôm hùm nuôi lồng, nhưng chúng lại rất nguy hiểm ở giai
đoạn ấu trùng, có thể gây chết 90% ấu trùng trong vòng 49 - 72 giờ (Nilsson và
ctv, 1976).
Nhận xét và khuyến
nghị
1. Nhận xét
+ Tôm hùm bông nuôi lồng tại Sông Cầu,
Phú Yên thường gặp một số bệnh ; trắng râu, long đầu, đóng sun hay hầu, đầu to,
mềm vỏ, đen mang, phồng mang và bệnh đỏ thân. Trong đó bệnh trắng râu, đỏ thân
và đen mang có tần số xuất hiện bệnh cao, gây chết tôm hàng loạt và nhanh
chóng. Ðặc biệt là bệnh đỏ thân gặp ở mọi giai đoạn tôm nuôi từ 30 g/con đến
1.200 g/con, gây thiệt hại đáng kể cho người nuôi tôm hùm lồng khu vực này.
+ Vi khuẩn thường gặp trên tôm hùm bông
nuôi lồng tại Sông Cầu, Phú yên có các giống : Vibrio, Aeromonas, Pseudomonas,
Proteus. Trong đó giống Vibrio đặc biệt là loài V.parahaemolyticus gặp ở tất cả
các đợt lấy mẫu phân tích.
+ Có thể sử dụng một số kháng sinh như
Norfloxacin, Nalidixic acid, Ciprofloxacin để phòng trị bệnh Vibrio ở tôm hùm
nuôi lồng. Tuy vậy, việc sử dụng này cần lưu ý đến nồng độ và khả năng kháng
thuốc của vi khuẩn.
+ Nấm thường gặp trên tôm hùm bông nuôi
lồng tại Sông Cầu, Phú yên có các giống : Lagenidium và Fusarium. Tỉ lệ tôm hùm
bông nuôi lồng nhiễm 2 loại nấm này lại khác nhau, nấm lagenidium nhiều hơn nấm
fusarium.
+ Ðộng vật ký sinh trên tôm hùm bông
nuôi lồng tại Sông Cầu, Phú Yên, bước đầu đã tìm thấy bọn sun, hầu bám ở phần
giáp đầu ngực của tôm hùm nuôi. Chúng có thể là tác nhân cơ hội gây bệnh cho
tôm hùm.
2. Khuyến nghị
Ðể có những biện pháp hữu hiệu phòng
tránh bệnh cho tôm hùm cần quan tâm nghiên cứu sâu về :
+ Các tác nhân và biện pháp phòng trị
bệnh đỏ thân, trắng râu và đen mang, vì đây là những bệnh thường gặp và gây
thiệt hại nhiều cho người nuôi tôm khu vực này. Cần nghiên cứu thêm về nấm và
động vật ký sinh.
+ Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp ở
tôm hùm bông nuôi lồng (qui hoạch vùng nuôi, qui trình chăm sóc, thức ăn, mật
độ thả và các biện pháp phòng bệnh tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét